Vào nội dung chính
Tạp chí tiêu điểm

Bắc Kinh thừa nhận đập Tam Hiệp gây hậu quả cho con người và môi trường

Đăng ngày:

Sau nhiều năm kiêu ngạo, chính phủ Trung Quốc buộc phải thú nhận đập thủy điện Tam Hiệp trên sông Dương Tử gây ra nhiều vấn đề nan giải :chính phủ chưa đáp ứng nhu cầu sinh sống của 1,4 triệu dân bị di dời, bảo quản môi trường thiên nhiên, tình trạng thiếu nước canh tác và nước tiêu dùng ở hạ nguồn đó là chưa kể nguy cơ động đất đe dọa hồ nước khổng lồ có chiều dài 600 km.

Rác trên sông Dương Tử gần đập Tam Hiệp. Ảnh chụp ngày 01/08/2010. REUTERS/China Daily
Rác trên sông Dương Tử gần đập Tam Hiệp. Ảnh chụp ngày 01/08/2010. REUTERS/China Daily
Quảng cáo

 

Vào ngày 18/05/2011, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo chủ trì một cuộc họp khẩn cấp của Quốc vụ viện về đập Tam Hiệp. Bản thông cáo ngắn ngủi được Tân Hoa Xã công bố vào buổi tối thừa nhận con đập khổng lồ này gây ra nhiều hậu quả « cần phải giải quyết khẩn cấp ».

15 năm từ khi thi công dự án 24 tỷ đôla cho đến lúc hoàn thành, chính quyền Trung Quốc gián tiếp thú nhận là chưa giải quyết thỏa đáng nơi ăn chốn ở của 1,4 triệu dân phải di cư đi nơi khác. Những thiệt hại về môi trường từ khắc phục đến đề phòng đều bất cập.

Theo báo chí Á Châu, đây là lần đầu tiên chính quyền Trung Quốc công nhận đập thủy điện lớn nhất Châu Á, xây dựng trên con sông dài nhất Á Châu gây ra những vấn đề to lớn cho con người và môi trường.

Từ trước đến nay, giới lãnh đạo Trung Quốc vẫn khoe khoang dự án này, giấc mơ của đại lãnh tụ Mao Trạch Đông mà người thực hiện là thủ tướng Lý Bằng, bắt đầu vào năm 1994. Giá phải trả đầu tiên là một vùng đất đai trù phú gồm 13 thành phố, 140 huyện và 1.350 làng mạc bị vùi chôn trong biển nước. Ngoài 1,4 triệu dân bị đập thủy điện tác hại trực tiếp phải di cư, người ta thẩm định có khoảng 5 triệu người khác ở những vùng lân cận cũng phải di dời vì môi trường thiên nhiên bị thay đổi không thể tiếp tục sống bằng nghề truyền thống. Hồ nước khổng lồ cao 185 mét với sức chứa 39 tỷ mét khối nước hiện bị ô nhiễm trầm trọng và điều nguy hiểm hơn nữa là do áp suất quá cao gây nạn đất lở. Năm 2009, chính phủ Trung Quốc thông báo kế hoạch gia cố tốn kém hơn 12 tỷ đôla.

Tuy nội dung buổi họp của Quốc vụ viện về các vấn đề « khẩn cấp » của đập Tam Hiệp không được công bố chi tiết nhưng đã xác nhận một thực tế là giấc mơ của Mao Trạch Đông cách nay hơn 40 năm rất có thể đang biến thành cơn ác mộng cho ban lãnh đạo hiện nay và cho người dân Trung Quốc ở hạ nguồn sông Dương tử.

Để tìm hiểu thêm về hậu quả của đập thủy điện Tam Hiệp, RFI đặt câu hỏi với kỹ sư Đỗ Văn Tùng. Ông là chuyên gia thủy điện của Canada và cũng là thành viên của Hiệp Hội Sinh Thái Việt.

RFI : Một cái đập thủy điện khổng lồ như Tam Hiệp thường phải gặp những "vấn đề" gì?

Kỹ sư Đỗ Văn Tùng : Trước tiên cần nhấn mạnh rằng khi xây dựng những cái đập lớn, tạo ra những hồ chứa khổng lồ thì rất khó tiên đoán trước những tác động của nó lên môi trường, lên hệ sinh thái, cụ thể là tác động lên dòng sông, lên lưu vực và cây cỏ sinh vật sống trong vùng lân cận. Kinh nghiệm của con người trong lãnh vực này còn ít ỏi, nhất là trong các vùng nhiệt đới. Vì vậy tuyệt đối phải thận trọng trong những loại dự án này.

Thủy điện được xem là một dạng năng lượng sạch và tái tạo, nhưng những đập thủy điện lớn thường gặp những vấn đề như sau:

- Ngăn cách dòng sông thiên nhiên thành hai thế giới riêng biệt ở trên và ở dưới cái đập. ệ sinh thái tự nhiên trong lưu vực sẽ bị chia cắt thành nhiều mảnh vì những cái đập và hồ chứa do con người tạo ra.

- Một hồ chứa lớn sẽ làm ngập vĩnh viễn một vùng đất rộng lớn, tiêu diệt cây cỏ và sinh vật trong vùng bị ngập, đó là chưa kể những di tích lịch sử vô giá hay những phong cảnh đẹp cũng nằm dưới nước mãi mãi. Cư dân sống hai bên bờ sông trước đây phải dời đi chỗ khác.

- Các loài cá đẻ trứng ở thượng nguồn sẽ không thể vượt qua chướng ngại khổng lồ là cái đập trừ phi có những phương tiện để giúp cá lên được đầu sông.

- Ngăn chận phần lớn phù sa trong sông ảnh hưởng đến nông nghiệp và ngư nghiệp ở hạ lưu và có thể làm thay đổi dòng sông phía hạ lưu đập.

- Các hồ chứa phân hóa những chất hữu cơ và thải khí carbon và methane góp phần vào hiệu ứng nhà kính.

- Hồ chứa cũng là nơi nuôi dưỡng những tác nhân gây bệnh cho con người.

RFI : Những khó khăn nào mà Tam Hiệp đang gặp phải ?

Kỹ sư Đỗ Văn Tùng: Tam Hiệp là một dự án thủy điện khổng lồ trên sông Dương Tử dài nhất châu Á với chi phí 24 tỉ đô-la. Đập Tam Hiệp tạo ra một hồ chứa dài 660 km, công suất hơn 18.000 MW (hơn 9 lần thủy điện Hòa Bình) và vì làm ngập hơn 600 km vuông đất đai phì nhiêu nên buộc hơn 1 triệu 2 trăm ngàn người phải dời nhà định cư chỗ khác. Nhiều nhà chuyên môn và khoa hoc gia ở Trung Quốc cũng như trên thế giới đã nhiều lần cảnh báo các tai họa của dự án Tam Hiệp vì đó là một dự án thủy điện khổng lồ xây dựng ở một địa điểm dân cư đông đúc, có một hệ sinh thái phong phú đa dạng, và cũng là nơi tiềm ẩn động đất nhưng chính quyền Trung Quốc vẫn làm ngơ và tiến hành việc xây dựng từ 1994 và mất hơn 15 năm mới xong. Những vấn đề đập Tam Hiệp đang gặp phải gồm có:

- Mực nước hồ dao động mỗi năm đến 30 m làm cho đất đai dọc bờ hồ mất ổn định và tạo ra đất trượt khiến hơn 300 ngàn người phải dời chỗ.

- Đập Tam Hiệp chận phù sa của sông DươngTử nên hạ lưu thiếu phù sa bồi lấp khiến vùng đồng bằng Dương Tử bị lún xuống, nước mặn xâm nhập xa hơn, ảnh hưởng đến nông nghiệp và nước sinh hoạt.

- Từ khi hồ Tam Hiệp tích nước các vùng dân cư chung quanh ghi nhận có nhiều cơn địa chấn xảy ra.

- Đồng bằng sông Dương Tử đang trải qua một cơn hạn hán tệ hại nhất trong 50 năm vừa qua. Chính quyền cho rằng vì thiếu mưa nhưng một số chuyên viên cho rằng, đập Tam Hiệp đã làm thay đổi thời tiết.

- Rác và các chất thải độc hai từ thượng lưu sông Dương Tử thay vì được nước chảy cuốn ra biển thì nay lại tích tụ trong hồ chứa Tam Hiệp làm tăng mức ô nhiễm của nước trầm trọng.

RFI : Anh thẩm dịnh ra sao về qui mô các khó khăn đó, và làm cách nào giải quyết? Nếu không thì có nguy cơ xảy ra tai họa gì?

Kỹ sư Đỗ Văn Tùng : Các vấn đề nêu ở trên mà đập Tam Hiệp đang gặp phải đều có qui mô lớn. Một số các vấn đề đó có thể giải quyết về mặt kỹ thuật tương đối dễ dàng, nhưng thực tế lại là một câu chuyện khác.Ví dụ vấn đề đất trượt ở hai bờ hồ có thể giải quyết bằng cách gia cố các bờ này nhưng chúng ta đang nói đến hàng trăm cây số như vậy thì việc giải quyết rất tốn kém. Tương tự với vấn đề các chất thải công nghiệp ở phía thượng lưu của đập tích tụ trong hồ chứa mặc dù trên lý thuyết thì các nhà máy công nghiệp này phải xử lý nước thải trước khi xả ra sông. Trên thực tế thì không biết đến lúc nào mới có thể buộc các nhà máy này tôn trọng luật pháp. Một số vấn đề khác như hồ Tam Hiệp gây ra nhiều cơn địa chấn trong vùng hay làm thay đổi thời tiết thì không đơn giản chút nào và hiện nay vẫn còn đang tranh cãi.

Một điểm khác cần lưu ý là với những dự án lớn như Tam Hiệp biết bao tiền bạc của người dân đổ vào và có một số ít doanh nghiệp và quan chức được hưởng lợi ngay, nhưng sau đó thì cũng chính người dân phải chi thêm tiền để chỉnh sửa những tác hại gây ra của các công trình đó. Như vậy, trong một xã hội mà người dân và trí thức không được tham gia trong những quyết định lớn của xã hội thì một nhóm nhỏ những người có quyền lực và tiền bạc sẽ thao túng trong chiều hướng có lợi cho cá nhân họ nhưng có hại cho toàn xã hội.

RFI : Nhận định chung như thế nào về chính sách Thủy điện của chính quyền Bắc Kinh? Cái giá phải trả cho con người, cho môi trường?

Kỹ sư Đỗ Văn Tùng : Trung Quốc giàu tài nguyên thủy điện, ước tính có khoảng 500 ngàn MW công suất và hiện nay mới khai thác khoảng 1/3. Trung Quốc có đông đảo lực lượng làm thủy điện có kinh nghiệm, đây là một dạng năng lượng mà họ có thể tự túc làm từ đầu đến cuối không phụ thuộc vào kỹ thuật của nước ngoài. Ngoài ra Trung Quốc có mục tiêu giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính nên có thể ước đoán là tỉ trọng năng lượng từ than đá sẽ giảm. Từ những lý do trên, thủy điện được xem là ưu tiên trong bức tranh năng lượng tương lai của Trung Quốc.
Thủy điện nếu phát triển đúng đắn thì không những đáp ứng được một phần nhu cầu năng lượng mà còn giải quyết vấn đề cung cấp nước cho sinh hoạt và nông nghiệp, chống hạn và lũ lụt. Năng lượng sạch từ thủy điện sẽ được tái tạo mỗi năm không phụ thuộc vào các nguyên liệu thải nhiều khí carbon như than đá hay dầu khí.

Thủy điện nếu không phát triển đúng đắn thì sẽ trở thành một tai họa. Nguyên tắc quan trọng nhất là phải xem tài nguyên thiên nhiên là của chung của xã hội, và chính phủ phải công bằng trong việc phân phối tài nguyên chung cho toàn xã hội. Một khi những người có quyền lực cấu kết với những người có tiền bạc để khai thác tài nguyên quốc gia cho mục đích riêng tư thì thiệt hại sẽ xảy ra cho phần đông quần chúng.

Ở Trung Quốc, vấn đề ô nhiễm môi trường hay ảnh hưởng tai hại lên hệ sinh thái vì phát triển kinh tế không phải là vấn đề mới lạ gì. Chính quyền Trung Quốc cũng bắt đầu nhận thức được là họ không thể phát triển kinh tế vô tội vạ như trước đây mà trái lại họ phải quan tâm nhiều hơn đến vấn đề môi trường. Câu hỏi ở đây là : làm sao Trung Quốc có thể cân bằng giữa phát triển kinh tế để giữ sự ổn định xã hội và cứu nguy môi trường càng ngày càng suy thoái trầm trọng.

RFI : Xin anh so sánh với chính sách Thủy điện của Canada để thính giả có thể mường tượng được sự khác biệt giữa "giấc mơ của Mao" bất chấp tốn kém với nhu cầu lợi ích thực tế ?

Kỹ sư Đỗ Văn Tùng : Canada cũng như Mỹ có nền kinh tế phát triển cao nên mức độ tăng trưởng hàng năm khá nhỏ. Chính sách tiết kiệm năng lượng cộng thêm việc tăng hiệu suất sử dụng làm cho nhu cầu năng lượng không tăng nhiều mỗi năm.Trong mấy chục năm gần đây Mỹ và Canada hầu như không xây dựng thêm một nhà máy thủy điện cỡ vừa hay cỡ lớn nào. Ngoài 2 lý do kể trên cần phải kể thêm là tiêu chuẩn về môi trường rất khắt khe nên khó mà vượt qua được cửa ải này.

Thật ra Trung Quốc cũng có những quy định về môi trường trong việc phát triển thủy điện, kể cả yêu cầu phải có ý kiến của dân chúng.Về mặt lý thuyết và bài bản thì không khác mấy với các nước Tây phương. Nhưng trên thực tế việc thi hành những quy định này rất lỏng lẻo hoặc hoàn toàn không xảy ra. Lý do là khi chính quyền và doanh nghiệp đã muốn xây dựng một nhà máy thủy điện thì họ sẽ tìm mọi cach để tiến hành cho dù có phản đối từ dân chúng hay những người chuyên môn.

Một điểm đáng chú ý là các nước như Trung Quốc, Việt Nam và Liên Xô trước đây có khuynh hướng thích xây dựng những công trình to lớn mặc dù hiệu quả kinh tế rất đáng nghi ngờ. Không hiểu họ thích danh hiệu “nhất thế giới” hay là vì mục đích chính trị quan trọng hơn những tiêu chuẩn khác.
 

 

 

 

Thư TinHãy nhận thư tin hàng ngày của RFI: Bản tin thời sự, phóng sự, phỏng vấn, phân tích, chân dung, tạp chí

Tải ứng dụng RFI để theo dõi toàn bộ thời sự quốc tế

Xem các tập khác
Không tìm thấy trang

Nội dung bạn đang cố truy cập không tồn tại hoặc không còn khả dụng.