Vào nội dung chính
Tạp chí xã hội

Hai thế kỷ lịch sử di dân tại Pháp

Đăng ngày:

Từng được mệnh danh là « miền đất đón tiếp », trong suốt hơn hai thế kỷ qua, nước Pháp đã đón nhận nhiều làn sóng nhập cư, trong thời bình cũng như trong thời chiến, cả trong giai đoạn khủng hoảng và trong giai đoạn hưng thịnh. Ban đầu là cư dân các nước láng giềng, rồi lan rộng ra khắp châu Âu và cả di dân tới từ các châu lục khác. Một số di dân chỉ ở Pháp trong một thời gian ngắn rồi hồi hương hoặc tiếp tục hành trình đi tìm miền đất hứa, số còn lại gắn bó trọn đời với nước Pháp.

Tấm áp-phích ghi « tuyển dụng thợ mỏ sang Pháp », tại Bảo Tàng về Di Dân, Porte Dorée, Paris, ngày 31/03/2017
Tấm áp-phích ghi « tuyển dụng thợ mỏ sang Pháp », tại Bảo Tàng về Di Dân, Porte Dorée, Paris, ngày 31/03/2017 Jacques DEMARTHON / AFP
Quảng cáo

Ngược dòng lịch sử, năm 1789, Cách Mạng Tư Sản Pháp nổ ra. Các nhà cách mạng đòi quyền bình đẳng cho tất cả mọi công dân. Sự khác biệt pháp lý duy nhất là vị thế « là người Pháp » hay « là người nước ngoài ». Sang thế kỷ XIX, Pháp trở thành « đất nước nhập cư ». Ngay từ những năm 1830, đã có nhiều người Ba Lan, Ý, Tây Ban Nha, Đức chạy sang Pháp tị nạn chính trị. Năm 1851, lần đầu tiên các nhà điều tra dân số thống kê có gần 380.000 người nước ngoài sinh sống tại Pháp, chủ yếu tới từ các nước láng giềng, đông nhất là người Bỉ, Ý và Đức.

Năm 1870, Đệ Nhị Đế Chế sụp đổ, Pháp bước sang nền Đệ Tam Cộng Hòa. Chính quyền kêu gọi tình đoàn kết, ban bố các biện pháp kiểm soát chặt chẽ người nước ngoài. Tuy nhiên, tới năm 1881, số người ngoại quốc sống tại Pháp đã đạt ngưỡng 1 triệu người. Đông nhất là nửa triệu người Bỉ, sống chủ yếu ở miền Bắc nước Pháp và làm việc trong các ngành dệt may, khai thác than đá. Cho tới cuối thế kỷ XIX, người Bỉ vẫn chiếm số đông nhất trong các cộng đồng người nước ngoài tại Pháp. Còn người Anh, có trình độ, có tay nghề, được đào tạo trước khi sang Pháp, khoảng 80.000 người đã góp phần thành lập và phát triển ngành luyện kim hiện đại tại Pháp trong thời Phục Hoàng và Đệ Nhị Đế Chế, đồng thời tham gia xây dựng các tuyến xe lửa đầu tiên của Pháp.

Năm 1889, luật quốc tịch định nghĩa rõ ràng quốc tịch Pháp và điều kiện để được cấp quốc tịch Pháp, tạo ranh giới rõ ràng giữa người Pháp và người ngoại quốc. Một cách khái quát, từ năm 1830 tới năm 1914, chính sách của Pháp với người nhập cư là : vào Pháp tự do, nhưng cư trú dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền.

Đệ Nhất Thế Chiến 1914-1918

Khi Đệ Nhất Thế Chiến nổ ra, những người nước ngoài tới từ các quốc gia là « kẻ thù » của nước Pháp buộc phải rời Pháp hoặc rút ra khỏi vùng quân sự, và bị tập trung về một số nơi nhất định.

Trong khi đó, nhiều di dân tại Pháp đã tích cực tình nguyện tham gia chiến đấu vì nước Pháp. Tổng cộng, 43.000 người tới từ 52 nước tình nguyện tham gia vào binh đoàn lính Lê Dương. Ngoài ra, cũng giống như Anh Quốc, chính quyền Pháp huy động quân tình nguyện từ các nước thuộc địa, nhất là ở châu Phi và Đông Dương. Về sau, nhiều người bị ép buộc phải đi lính cho Pháp, dẫn đến sự căng thẳng và phản kháng ở nhiều nước thuộc địa, nhất là Algérie và Burkina Faso.

Còn ở hậu phương, vào cuối năm 1914, khi phần lớn đàn ông ra chiến trận, ngày càng nhiều phụ nữ Pháp tham gia sản xuất. Hàng chục ngàn di dân Bỉ được tuyển dụng vào ngành công nghiệp của Pháp. Ngoài ra, chính quyền cũng nhập khẩu lao động nước ngoài là di dân từ các nước đồng minh hay các nước trung lập tới Pháp để bổ sung cho nguồn nhân lực bị thiếu hụt trong thời chiến và cấp cho họ « thẻ lao động » (carte de travail). Đây là thẻ mà các « di dân lao động » bắt buộc phải có để được vào Pháp.

Hai phần ba trong tổng số hơn 400.000 người lao động nước ngoài làm việc trong các ngành công nghiệp và 1/3 trong lĩnh vực nông nghiệp. Chính phủ Pháp cũng đưa vài trăm ngàn nhân công từ các nước thuộc địa sang Pháp làm việc, nhất là người Algérie. Từ năm 1916, quân đội Pháp được giao nhiệm vụ tuyển dụng và phân công lao động cho họ. Ngoài ra, còn có 140.000 nhân công Trung Quốc được đưa sang Pháp làm việc. Các binh lính và nhân công sau chiến tranh thường bị đưa trở về nước.

Hậu Đệ Nhất Thế Chiến 1919-1939

Đệ Nhất Thế Chiến đã khiến 1.300.000 người Pháp thiệt mạng. Chiến tranh kết thúc, nước Pháp bước vào giai đoạn tái thiết đất nước, công nghiệp phát triển mạnh, chưa bao giờ Pháp lại cần nhiều lao động nước ngoài như trong những năm 1920. Và cũng chưa bao giờ có nhiều người nước ngoài ồ ạt đến Pháp trong một thời gian ngắn như trong giai đoạn giữa hai Thế Chiến.

Theo thống kế chính thức mà nhiều người vẫn cho rằng chưa phản ánh hết thực tế, chỉ trong vòng 10 năm, số người nước ngoài tại Pháp đã tăng gần gấp đôi. Một triệu rưỡi người vào năm 1921 và hơn 2,7 triệu người vào năm 1931, tương đương với 7% dân số Pháp. Giai đoạn này cũng đánh dấu sự bùng nổ di dân Ba Lan tại Pháp (500.000 người, trong đó có 50.000 người Do Thái). Pháp trở thành nước đón tiếp nhiều di dân nhất thế giới, nhiều hơn cả Mỹ.

Vào năm 1919-1920, chính phủ Pháp đã ký các « công ước di dân » với nhiều nước châu Âu đông dân, như Ba Lan, Ý, Séc và Slovakia để nhập khẩu lao động từ các nước này. Các công ước đảm bảo người lao động nước ngoài tại Pháp được đối xử công bằng và được hưởng chế độ an sinh xã hội như người bản xứ. Hợp đồng lao động của họ phải ghi rõ điều kiện làm việc và lương bổng. Năm 1927, Quốc Hội Pháp thông qua luật tạo điều kiện cho di dân được nhập quốc tịch Pháp. Phụ nữ Pháp kết hôn với người nước ngoài không còn bị bắt buộc phải theo quốc tịch của chồng.

Nếu người Ý ghi dấu ấn trong ngành luyện kim ở vùng Loraine, người Bồ Đào Nha nổi tiếng trong nghề khai thác than ở vùng Nord. Di dân Ý và Tây Ban Nha góp phần cứu nông thôn vùng tây nam nước Pháp khỏi cảnh khan hiếm nông dân. Còn người Nga tập trung ở Paris và vùng phụ cận. « Kinh đô ánh sáng » Paris cũng thu hút rất nhiều nghệ sĩ, nhà văn tới từ khắp nơi trên thế giới.

Cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra năm 1931 khiến nhiều người coi di dân nước ngoài là « gánh nặng » đè lên vai nước Pháp, dẫn tới tâm lý bài ngoại trong xã hội. Năm 1932, Quốc Hội Pháp thông qua với số phiếu tuyệt đối dự luật mới hạn định số lao động nước ngoài trong các ngành nghề để bảo vệ công ăn việc làm cho người Pháp trước sự « sự xâm lăng của người nước ngoài ». Người tị nạn Ba Lan, Ý, Tây Ban Nha, Đức phải cư trú trong những thành phố nhất định do chính phủ chỉ định. Nếu họ có hành động gây nguy hiểm cho an ninh công cộng, họ bị nhà chức trách trục xuất.

Trong khi nhiều người nước ngoài mất việc và bị trục xuất về nước, nhất là người Bồ Đào Nha và người Ba Lan, thì lại có nhiều người, nhất là người Do Thái từ các nước Đan Mạch, Đông - Trung Âu … chạy sang Pháp xin tị nạn trong sự hờ hững, lạnh nhạt của người Pháp, nhất là trong bối cảnh xu hướng bài ngoại ngày càng tăng.

Đệ Nhị Thế Chiến 1939-1945

Cũng giống như trong Đệ Nhất Thế Chiến, khi Đệ Nhị Thế Chiến nổ ra vào năm 1939, chính phủ Pháp huy động hàng trăm ngàn người tự nguyện từ các nước thuộc địa, trong đó phải kể tới 178.000 người châu Phi và Madagascar tham gia chiến đấu cho quân đội Pháp, 20.000 người tới từ Đông Dương để tham gia lao động sản xuất trong các nhà máy.

Sang thời thống chế Pétain, trong chính phủ Vichy 1940-1944, 15.000 người đã bị tước quốc tịch Pháp, 40% số đó là người Do Thái. Có 40% người Do Thái ngoại quốc và 10% người Do Thái Pháp bị chuyển tới các trại tập trung ở nước ngoài, khiến 80.000 người thiệt mạng. Đây cũng là giai đoạn đầu tiên, tính từ hơn một thế kỷ trước đó, nước Pháp gần như không đón nhận người nhập cư.

Hậu Đệ Nhị Thế Chiến

Vào cuối năm 1945, cuộc khủng hoảng dân số sau chiến tranh đã dẫn tới sự ban bố hai đạo luật tạo điều kiện thuận lợi để di dân nước ngoài được cấp quốc tịch Pháp và xây dựng chương trình tuyển mộ lao động nước ngoài. Năm 1946, Pháp ký thỏa thuận tuyển dụng nhân công với chính phủ Ý. Di dân lao động Ý và số người Ý được cấp quốc tịch Pháp tăng nhanh chóng. Tới năm 1962, người nước ngoài có quốc tịch Pháp đông nhất là người Ý.

Năm 1956, một sự kiện lớn diễn ra ở Trung Âu : cuộc Cách mạng dân chủ mùa thu đẫm máu ở Hungary. Cuộc cách mạng bị chiến xa Liên Xô đè bẹp, 200.000 người Hung phải bỏ xứ ra đi, trong đó 10.000 người được Pháp tiếp đón và cấp quy chế tị nạn.

Từ năm 1961 tới năm 1965, chính phủ Pháp lại ký thỏa thuận với các nước Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Nam Tư và Thổ Nhĩ Kỳ đón nhận di dân từ các nước này để bù đắp tình trạng thiếu hụt về dân số nói chung và nhân công nói riêng tại Pháp. Theo điều tra dân số năm 1968, với 607.000 người, cộng đồng di dân Tây Ban Nha chiếm số đông nhất ở Pháp, nhiều hơn cả người Ý. Nhưng tới năm 1975, vị trí trên thuộc về cộng đồng người Bồ Đào Nha (750.000 người), đứng thứ hai là người Algérie. Thậm chí, cho tới tận năm 1999, di dân Bồ Đào Nha vẫn chiếm số đông nhất tại Pháp.

Giai đoạn 1970-1975, dưới chế độ độc tài quân sự ở nhiều nước Nam Mỹ, nhiều nhà đối lập với chính quyền các nước Brazil, Achentina, Urugoay, Chilê phải ra đi và được nước Pháp mở rộng tay tiếp đón với quy chế tị nạn. Từ năm 1975 tới cuối những năm 1980, nước Pháp lại đón nhận người tị nạn từ Đông Nam Á. Nhưng cũng trong năm 1975, do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng dầu lửa 1973, nhiều người rơi vào cảnh thất nghiệp, buộc chính phủ phải thắt chặt chính sách nhập cư. Năm 1974, Pháp ngưng đón tiếp lao động nước ngoài. Năm 1977, chính quyền thực hiện chính sách hỗ trợ tài chính cho những người nước ngoài muốn rời Pháp, hồi hương vĩnh viễn. Đồng thời chính phủ Pháp cũng chú trọng hơn đến việc giúp người nhập cư hòa nhập hơn vào xã hội Pháp.

Vào năm 1999, Pháp có gần 3.260.000 người nhập cư. Tuy nhiên, nếu tính theo tỉ lệ người nhập cư/tổng dân số Pháp, trong suốt hơn hai thế kỷ qua, chỉ có một lần duy nhất là vào năm 1982, tỉ lệ này vượt quá tỉ lệ 7% của năm 1931. Tính tổng cộng, Pháp đã đón nhận di dân tới từ hơn 100 quốc gia trên toàn thế giới.

Năm 2002, tổng thống Pháp Jacques Chirac đưa ra ý tưởng mở bảo tàng Lịch sử di dân, nhằm giới thiệu và nhắc nhở công chúng về sự đóng góp quan trọng của người nhập cư trong công cuộc xây dựng nước Pháp. Bảo tàng được hoàn thành năm 2007, dưới thời tổng thống Nicolas Sarkozy, bảo tàng đã không được mở cửa do nhiều lý do chính trị. Phải tới năm 2014, dưới thời tổng thống François Hollande, bảo tàng quốc gia về Lịch sử di dân mới chính thức đi vào hoạt động.

Ông Benjamin Stora, một trong những lãnh đạo của bảo tàng giải thích : « Các di dân này, khi tới Pháp, điều họ quan tâm nhất là hòa nhập vào xã hội Pháp. Họ không muốn cả đời là người nhập cư. Mục tiêu của họ là được công nhận như bất cứ công dân nào khác tại đất nước này. Về cơ bản, những dấu vết còn lại trong hành trình nhập cư của họ ít được lưu giữ. Ký ức của thế hệ con, cháu của những người trước đây nhập cư vào Pháp có một lỗ hổng mà chúng ta cần lấp đầy. Đó là sứ mệnh của bảo tàng này. Nhiệm vụ của chúng tôi là lưu giữ và truyền tải những ký ức đó để chúng không bị tách rời khỏi lịch sử quốc gia ».

Sang thế kỷ XXI, di dân vẫn là đề tài thời sự nóng hổi và nhạy cảm tại Pháp. Những cuộc tranh luận dai dẳng về người nhập cư vẫn chưa có hồi kết. Tuy nhiên, có một điều không thể phủ nhận là từ hơn hai thế kỷ lịch sử nay, di dân từ khắp mọi nơi trên thế giới đã mang lại nhiều đổi thay cho bộ mặt kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa - nghệ thuật của nước Pháp. Điều này đã được thể hiện rõ trong triển lãm có tên « Hai thế kỷ lịch sử di dân tại Pháp » trong bảo tàng quốc gia về Lịch sử nhập cư.

Thư TinHãy nhận thư tin hàng ngày của RFI: Bản tin thời sự, phóng sự, phỏng vấn, phân tích, chân dung, tạp chí

Tải ứng dụng RFI để theo dõi toàn bộ thời sự quốc tế

Xem các tập khác
Không tìm thấy trang

Nội dung bạn đang cố truy cập không tồn tại hoặc không còn khả dụng.