Vào nội dung chính
Tạp chí âm nhạc

Jacques Offenbach, điệu nhảy bất tận và "câu chuyện" dang dở

Đăng ngày:

Sánh vai cùng Rossini và Mozart, Jacques Offenbach là cha đẻ của thể loại opéra-bouffe français (một thể loại nhạc kịch vui, mang tính châm biếm nhẹ nhàng). Ông, nhà soạn nhạc thuộc trường phái lãng mạn nửa đầu thế kỷ XIX, nghệ sỹ violoncelle xuất chúng người Pháp gốc Đức, đã để lại cho dân tộc Pháp một gia tài mang giá trị muôn đời. 

Jacques Offenbach, ảnh chụp năm 1860.
Jacques Offenbach, ảnh chụp năm 1860. Wikipedia
Quảng cáo

Đó là những tuyệt tác, mà cho đến ngày nay, luôn có mặt trong danh mục biểu diễn của các nhà hát và dàn nhạc danh tiếng như : Orphée aux Enfers (Orphée ở chốn địa ngục, sáng tác năm 1858), Les contes d’Hoffmann" (Những câu chuyện của Hoffmann), La Belle Hélène (Nàng Hélène xinh đẹp) và La vie parisienne (Cuộc sống Paris)…

Offenbach theo học đàn violoncelle tại nhạc viện Paris và khởi nghiệp như một nghệ sỹ độc tấu đầy tài năng. Năm 1847, cảm thấy chưa phát huy hết chính mình, ông đã rời bỏ vị trí danh dự đó để trở thành giám đốc âm nhạc của nhà hát Comédie française, nhờ vào thành công của một chuỗi các tiểu phẩm viết cho thanh nhạc (chansonnette) của mình.

Tám năm sau, Jacques Offenbach quyết định mở nhà hát riêng mang tên "Les Bouffes Parisiens" (Hí kịch của người Paris), khánh thành năm 1855. Đây chính là nơi tạo ra thành công của vở opéra-bouffe đầu tiên Orphée aux Enfers. Những tác phẩm tiếp theo như La Grande-Duchesse de Gerolstein, La vie parisienne, Les Brigands được công chúng chào đón rất nồng nhiệt.

Quảng cáo vở kịch "Orphée aux enfers" tại nhà hát Bouffes Parisien, năm 1866.
Quảng cáo vở kịch "Orphée aux enfers" tại nhà hát Bouffes Parisien, năm 1866. BNF

Nhắc đến tên tuổi Offenbach là nhắc đến những điệu nhạc tưng bừng lễ hội, là giai điệu chỉ có niềm vui bất tận cùng tiếng cười sảng khoái. Âm nhạc trong các vở opéra-bouffe của ông đa phần gắn với nhịp điệu nhảy múa như quadrille, polkas hay valse, cơ cấu dàn nhạc nhẹ nhàng nhưng tràn đầy năng lượng. Đỉnh cao trong số đó là Menuet, Galop Infernal et chœur (Menuet, vũ điệu Galop địa ngục và hợp xướng), là khúc nhạc trong vở opéra-bouffe mang tên Orphée aux Enfers ra đời năm 1858.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhịp điệu ngập tràn hưng phấn ấy vang lên khắp nơi trong các phòng trà Paris, trở thành linh hồn của điệu nhảy "French Cancan" tại nhà hát Moulin Rouge. "Thuật ngữ “Cancan” nhằm miêu tả những tiếng động của gót giầy nhẩy mà các vũ nữ đập xuống sàn diễn, cốt để tạo thành một âm thanh bổ sung trên nền nhạc vui nhộn hào hứng, đồng thời kết hợp với những cử chỉ vén váy hơi lộ liễu và táo bạo hướng về phía khán giả, quay cuồng theo điệu nhạc". (Đức Bình, tạp chí âm nhạc RFI ngày 12/12/2009)

"Galop Infernal" là sự đan xen giữa khí nhạc và thanh nhạc, cụ thể hơn là đối đáp giữa dàn nhạc và hợp xướng. Việc tăng dần đều của cường độ và tốc độ trong suốt tác phẩm, đã làm nổi bật tính chất hội hè, ăn chơi và nhảy múa. Từ đây không khí mỉa mai và nặng nề lùi xa, nhường chỗ cho những nét giai điệu tươi tắn dễ nhớ. Bộ gõ được huy động từ đầu đến cuối, tiếng sáo picolo chơi ở âm vực cao như cuốn người nghe vào đêm hội, quay cuồng những điệu nhảy không có hồi kết.

Jacques giải thích : « Tôi đã cố gắng khơi mào một thể loại âm nhạc vui , nó tôn trọng những quy luật của nghệ thuật và thị hiếu. Và tin rằng tôi đã thành công trong việc này ».

Hãy lắng nghe, một thứ âm nhạc có thể cuốn ta đi, giai điệu có khi như tán tỉnh, lúc thì mơn trớn, trêu chọc. Một thứ âm nhạc thì thầm, khi úp khi mở ấy, chỉ có thể có trong "French Cancan", mà ngày nay được coi là một trong số những tinh hoa vô giá của nhà hát Moulin Rouge.

Có một số ý kiến cho rằng, nhắc đến Offenbach là nhắc đến thứ âm nhạc phù phiếm, giai điệu dễ dãi, chỉ là thứ nhạc minh họa cho những cuộc dạ hội hoàng gia bất tận. Tuy nhiên, ẩn đằng những điệu khúc vô vị kia là một cá tính âm nhạc không hề đơn giản. Có thể nói rằng, đó là một tổng thể ít được biết đến của một thiên tài âm nhạc đích thực.

Quảng cáo nhà hát Bouffes Parisiens.
Quảng cáo nhà hát Bouffes Parisiens. Wikipedia

Được mệnh danh là "Mozart nhỏ của Champs-Elysées", những giai điệu bay bổng, tuyệt đẹp của Jacques Offenbach có sự phản chiếu của nhiều phong cách âm nhạc như : Mozart, Rossini, âm nhạc truyền thống Pháp cũng như trường phái lãng mạn Đức nửa đầu thế kỷ XIX.

Barcarolle (khúc hát chèo thuyền) "Belle nuit, ô nuit d'amour", dành cho hai giọng nữ cao soprano, mezzo-soprano và dàn hợp xướng, là trích đoạn trong vở opéra huyền ảo Les contes d’Hoffmann, dựa theo kịch bản của Jules Barbier.

Khúc hát quyến rũ, hòa quyện vào nhịp vỗ dập dềnh của sông nước thành Vienna, được trao cho nhân vật Giulietta và Nicklausse diễn xướng trong lúc đi thuyền gondole. Dàn dây chơi dàn trải, bè violoncelle cất lên rồi từ từ chìm dần trong những lớp sóng đều đặn của từng đợt hợp âm, trên nền nhịp 6/8 như đưa ta theo vào thế giới thần tiên mờ ảo đầy mơ mộng. Giai điệu tái hiện lại vào cuối cảnh nhưng chỉ được diễn xướng bởi dàn đồng ca, khi Giulietta và người tình mới chia xa.

Les contes d’Hoffmann là cách để Offenbach minh chứng rằng, ông không phải là kẻ hay « đùa cợt ». Theo tờ Musical Word : « Ông ấy là người nghệ sỹ có tư cách đặc biệt …một người đàn ông khiến tất cả các nhạc công phải tôn trọng bởi sự thông hiểu sâu rộng và các quý ông phải ngả mũ bởi tâm thế của mình ».

Les contes d’Hoffmann là đứa con tinh thần ra đời trong giai đoạn kinh tế vô cùng khó khăn của cuộc đời ông. Vì vậy có nhiều khoảng thời gian, Jacques đã không toàn tâm ,toàn ý để hoàn thành vở opéra này. Cho tận đến cuối đời, Offenbach chỉ để lại màn Prologue và màn Olympia hoàn chỉnh, còn lại các màn khác chỉ ở trên bản phác thảo piano. Cũng chính vì vậy, Les contes d’Hoffmann còn là đề tài gây tranh cãi bởi sự xuất hiện nhiều hiệu đính khác nhau của tác phẩm sau khi Offenbach qua đời.

Tháng 07 năm 2004, trong lúc người ta còn tin rằng bản phối khí cho dàn nhạc đã bị phá hủy, thì kỳ diệu thay lại được tìm thấy trong kho lưu trữ của Opéra de Paris. Bản nhạc này bị biến mất trong đám cháy tại phòng hòa nhạc Favart năm 1887, và cực điểm của sự rủi ro, là phiên bản viết bằng tiếng Đức cũng bị tan thành tro bụi trong một đám cháy ở Vienne năm 1881. Kể từ đó tác phẩm mang tai tiếng là đứa con « bị nguyền rủa ».

Jacques Offenbach, bậc thầy của những nét nhạc ngập tràn niềm vui, âm nhạc của ông phản chiếu niềm vui sống, không lo nghĩ. Tuy nhiên, dưới lớp vỏ hài hước đó, những đứa con tinh thần của ông cũng chở nặng không kém nhiều chỉ trích gay gắt, thị phi và suy ngẫm về số phận.

Dù cho thế nào đi nữa, đối với nền âm nhạc loài người, những tác phẩm và con người ông mãi xuất hiện theo một cách riêng, luôn đẹp đẽ và sống động nhất. Giống như « những tồn tại siêu nhiên, được thoát khỏi thế giới huyền ảo của người kể chuyện Hoffmann. Ông, với mái tóc bằng những bông hoa, đôi mắt long lanh đầy tinh nghịch, cái mũi khoằm và cái miệng đầy chua ngoa… » (Emilie Blavet).

Tượng bán thân Jacques Offenbach tại nghĩa trang Montmartre.
Tượng bán thân Jacques Offenbach tại nghĩa trang Montmartre. Wikipedia

Thư TinHãy nhận thư tin hàng ngày của RFI: Bản tin thời sự, phóng sự, phỏng vấn, phân tích, chân dung, tạp chí

Tải ứng dụng RFI để theo dõi toàn bộ thời sự quốc tế

Xem các tập khác
Không tìm thấy trang

Nội dung bạn đang cố truy cập không tồn tại hoặc không còn khả dụng.