Vào nội dung chính
Tạp chí kinh tế

Bất ổn ở Biển Đông đe dọa giao thương quốc tế

Đăng ngày:

Gần 50 % hàng hóa trên thế giới phải đi ngang qua Biển Đông. Vùng biển này cũng là nơi hơn 80 % năng lượng nhập vào Trung Quốc phải đi qua. Bắc Kinh có hoài bão kiểm soát eo biển Malacca để bảo đảm an các nguồn tiếp liệu năng lượng.

Quảng cáo

« Làm chủ được biển cả, là làm chủ được giao thương. Kiểm soát được giao thương là làm chủ được các nguồn tài nguyên của thế giới ». Đó là chủ thuyết đã được chính trị gia người Anh, và cũng là một nhà thơ nổi tiếng, Sir Walter Raleigh đưa ra từ thế kỷ thứ 16-17.

Hiện tại hơn 90 % những sản phẩm lưu hành trên thế giới đều được chuyển từ nơi sản xuất tới tay người tiêu dùng bằng đường biển. Một báo cáo gần đây của Hội nghị Thương mại và Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNCTAD) đã nêu ra những con số cụ thể : nội trong năm 2010, gần tám triệu rưỡi tỷ tấn hàng – tương đương gần một nửa tổng khối lượng chuyên chở hàng hóa toàn thế giới, đã được vận chuyển qua Biển Đông.

Vùng biển này là nơi, năm ngoái 79 tỷ đô la hàng của Mỹ được xuất khẩu ra thế giới và 127 tỷ hàng nhập vào Hoa Kỳ đi qua khu vực này. Căng thẳng tại Biển Đông đang khiến nhiều nhà nghiên cứu lo ngại trong trường hợp xảy ra xung đột, tuyến đường huyết mạnh của các hoạt động giao thương quốc tế này bị gián đoạn. Bên cạnh những đe dọa về mặt chiến lược và quân sự, còn phải kể đến những hậu quả tai hại về tài chính đối toàn cầu. Trung Quốc nhà vô dịch về thương mại của thế giới sẽ là nạn nhân đầu tiên.

Biển Đông nằm trên tuyến huyết mạch nối liền Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương, nối liên châu Âu vớichâu Á, Trung Đông với châu Á. Nhiều tuyến vận tải đường biển quan trọng trên thế giới như tuyến Tây Âu, Bắc Mỹ qua Địa Trung Hải, kênh đào Suez, Trung Đông đến Ấn Độ, Đông Á đi qua kênh đào Panama đến bờ Đông Bắc Mỹ và Caribê hya Đông Á đi Úc, Tây Bắc Mỹ đến Đông Á và Đông Nam Á đều liên quan đến Biển Đông.

Biển Đông là một trong những nơi có các hoạt động qua lại « nhộn nhịp » nhất trên thế giới. Các quốc gia cận duyên, lại là những cột trụ thương mại toàn cầu. Đây cũng là nơi có những hải cảng quan trọng vào bậc nhất như cảng Singapore hay Hồng Kông.

Trả lời ban Việt ngữ RFI bà Valérie Niquet giám đốc đặc trách khu vực Châu Á thuộc Viện Nghiên Cứu Chiến lược của Pháp phân tích về tầm mức quan trọng trên bàn cờ thương mại quốc tế của Biển Đông :

« Một phần lớn giao thương quốc tế phải đi qua Biển Đông đơn giản là vì các cường quốc thương mại của thế giới đều ở cả trong khu vực này. Tôi muốn nói tới Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Các luồng giao thương đó một phần lớn là để chuyển hàng xuất khẩu của châu Á sang châu Âu, tới các nước phương Tây, các nước Ả Rập và kể cả châu Phi.

Ngược lại thì nguyên và nhiên liệu của thế giới cũng phải đổ về châu Á. Cần nhắc lại là hơn 80 % năng lượng mà Trung Quốc, Hàn Quốc hay Nhật Bản nhập vào bắt buộc phải đi qua Biển Đông. Trung Quốc, Nhật Bản hay Hàn Quốc đều là những nền kinh tế lấy xuất khẩu làm trụ cột. Rõ ràng Biển Đông là một mắt xích hết sức quan trọng của thương mại quốc tế. Như vậy trong trường hợp xảy ra xung đột, hậu quả tai hại nhất, trước hết là tài chính, kinh tế.

Tuy nhiên, các hoạt động mậu dịch toàn cầu sẽ không bị gián đoạn. May mắn thay là chúng ta có một vài tuyến đường khác, chẳng hạn như là đi vòng qua nước Úc. Đương nhiên là lộ trình đó dài hơn và tốn kém hơn.

Bên cạnh đó một hậu quả tai hại khác là về phương diện tâm lý trước những lo ngại xung đột diễn ra ở khu vực hiện nay đang phát triển nhất, đang có tỷ lệ tăng trưởng vững chắc nhất và lại là đầu tàu kinh tế của thế giới. Khi đó những tác hại kèm theo, tôi nghĩ là sẽ rất nghiêm trọng »

Về phần mình, nhà báo Lưu Tường Quang từ Sydney - Úc đặc biệt chú ý tới tầm mức chiến lược kinh tế của eo biển Malacca trong thế giới mở rộng ngày nay. 40 % nhập khẩu của Nhật Bản phải đi ngang qua eo biển nối liên biển Andanam với Biển Hoa Đông. Đây cũng là nơi hàng năm 75.000 tàu bè qua lại, tương đương với từ 30 đến 40 % lượng giao thông hàng hải quốc tế. Trước hết ông Lưu Tường Quang nhắc lại đà lớn mạnh của hải quân Trung Quốc và ông phác họa ra toàn cảnh về tương quan lực lượng của hải quân Trung Quốc trong vùng :

00:59

Nhà báo Lưu Tường Quang- Sydney : Tương quan lực lượng Hải quân Mỹ- Trung

Giám đốc đặc trách khu vực Châu Á thuộc Viện Nghiên Cứu Chiến Lược của Pháp, Valérie Niquet cũng đưa ra quan điểm tương tự như phân tích của nhà báo Lưu Tương Quang. Đồng thời bà Niquet cho rằng, Bắc Kinh tuy ý thức được là tiềm lực hải quân của mình vẫn còn thua kém Hoa Kỳ nhưng điều ấy không cấm cản Trung Quốc uy hiếp các nước bé lân cận, như Philippines, Việt Nam … Vì theo bà Niquet các nhà cầm quyền ở Bắc Kinh thừa biết rằng, không một ai, kể cả Hoa Kỳ, đọ sức với Trung Quốc về mặt quân sự để bảo vệ những hòn đảo không người ở Biển Đông.

« Hải quân Trung Quốc giờ đây đã phát triển mạnh. Bắc Kinh không có phương tiện để qua mặt hải quân Hoa Kỳ, kể cả ở khu vực Biển Đông. Dù vây, Trung Quốc có khuynh hướng khiêu khích các nước trong vùng bởi vì trước mặt Trung Quốc là những nền dân chủ. Mà những nền dân chủ đó, từ Hoa Kỳ đến, Philippines và cả Việt Nam đều không một ai muốn đương đầu với Trung Quốc cả. Tôi muốn nói là ai cũng bực mình trước thái độ sách nhiễu và hống hách của Bắc Kinh ở Biển Đông hay ở Hòa Đông. Ở Biển Đông, Những nước nhỏ trong vùng không có khả năng và trọng lượng để đáp trả thành thử những quốc gia đó ngày càng phải dựa vào Hoa Kỳ ».

Trở lại với eo biển Malacca và tầm mức quan trọng của nói trong giao thương quốc tế, nhà báo Lưu Tương Quang phân tích thêm : 

01:36

Nhà báo Lưu Tường Quang- Sydney : Tầm mức chiến lược của eo biển Malacca

Vấn đề an toàn hàng hải liên quan trực tiếp đến tầm mức quân sự và chiến lược của eo biển Malacca. Ông Lưu Tường Quang cho thấy sức trước sức mạnh ngày càng lớn của hải quân Trung Quốc các nước Đông Nam Á chung quanh tuy không trực tiếp đương đầu với Trung Quốc nhưng đang từng bước xây dựng một chiến lược để tự bảo vệ mình trước những ý đồ bành trướng của Bắc Kinh. Nniều nước Đông Nam Á hiện nay đang xích lại gần Hoa Kỳ :

02:54

Nhà báo Lưu Tường Quang : Các nước nhỏ đang tìm cách đối phó

Dù sao Hải quân Trung Quốc là công cụ để Bắc Kinh hoàn thành ba mục tiêu : bảo đảm an toàn trên một tuyến đường mà có tới 90 % trao đổi mậu dịch của Trung Quốc đi qua, khai thác tài nguyên ngoài khơi và nhất là mở rộng địa bàn tới tận Thái Bình Dương. Đó là nguyên nhân vì sao Bắc Kinh đã phát triển chiến lược Blue Water Navy – đưa tàu chiến ra các vùng nước xanh chứ không còn luẩn quẩn trong vùng nước đục Brown Water Navy như trước nữa. Theo như phân tích của nhà sử học Benoit Pouget, giảng dậy tại Đại học Aix en Provence tham vọng làm chủ biển cả của Trung Quốc không dùng lại ở Biển Đông. Bắc Kinh đã nâng cấp Hải quân của mình để mở đường ra tận Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.

 

Thư TinHãy nhận thư tin hàng ngày của RFI: Bản tin thời sự, phóng sự, phỏng vấn, phân tích, chân dung, tạp chí

Tải ứng dụng RFI để theo dõi toàn bộ thời sự quốc tế

Xem các tập khác
Không tìm thấy trang

Nội dung bạn đang cố truy cập không tồn tại hoặc không còn khả dụng.